Tôi đã chạy Windows 11 trên hầu hết các thiết bị của mình trong những năm gần đây vì công việc đòi hỏi sử dụng một số phần mềm sáng tạo chuyên dụng mà không có phiên bản tương đương trên Linux. Tuy nhiên, trước đây, mọi chuyện lại khác. Trong nhiều năm, tôi đã thực hiện dual-boot Linux và Windows trên laptop cá nhân. Tôi thực sự tin rằng đây là giải pháp “tốt nhất của cả hai thế giới”, cho phép chuyển đổi linh hoạt giữa hai hệ điều hành chỉ với một lần khởi động lại. Khi gặp sự cố, tôi thường đổ lỗi cho kiến thức hạn chế của mình hoặc lỗi người dùng.
Thậm chí ngay cả khi những vấn đề đó khiến tôi mất dữ liệu và phải cài đặt lại hệ điều hành, tôi vẫn kiên trì với việc dual-boot chỉ vì có duy nhất một thiết bị và yêu thích khả năng chuyển đổi. Đã từng có lần tôi mất cả các menu UEFI BIOS phụ trên laptop của mình do Samsung đã cấu hình UEFI một cách khá lạ, và GRUB đã quyết định ghi đè dữ liệu đó. Nhưng giờ đây, tôi đã trưởng thành hơn, thời gian và dữ liệu của tôi trở nên quý giá hơn rất nhiều, vì vậy những ngày thử nghiệm dual-boot đã kết thúc. Tôi vẫn chạy Linux trên một số thiết bị và Windows trên những thiết bị khác, nhưng tôi đã từ bỏ việc cố gắng chạy cả hai trên cùng một máy.
1. Ác mộng quản lý phân vùng ổ đĩa
Tôi không muốn xử lý phân vùng ổ cứng nữa
Hầu hết kinh nghiệm dual-boot của tôi đều gắn liền với những chiếc laptop có dung lượng ổ cứng hạn chế. Điều đó đồng nghĩa với việc liên tục “xoay sở” với các phân vùng ổ đĩa để đảm bảo mỗi hệ điều hành có đủ không gian, đồng thời duy trì một phân vùng chung cho dữ liệu để có thể dễ dàng truy cập từ cả hai hệ điều hành. Hồi đó, ổ cứng 100GB có giá ngang ngửa ổ 2TB bây giờ, và không thể gắn nhiều hơn một ổ cứng vật lý, đó thực sự là một bài toán cân bằng. Thêm vào đó là yêu cầu về không gian bộ nhớ ảo (swap space) liên tục thay đổi, thành thật mà nói, đó là một cơn đau đầu ngay cả vào những thời điểm tốt nhất.
Tôi biết rằng dung lượng lưu trữ giờ đây rẻ hơn đáng kể. Việc phân vùng không còn quá phức tạp nữa, mặc dù cố gắng làm cho các phân vùng định dạng NTFS hoạt động trơn tru trên Linux vẫn là một nỗi phiền toái khác, nhưng tôi đơn giản là không muốn đối phó với rắc rối đó nữa. Thời gian của tôi là vô giá, đến mức tôi thà mua một thiết bị thứ hai để chạy Linux nếu vì lý do nào đó tôi cần một máy tính vật lý chuyên dụng. Nếu bạn muốn dual-boot và chấp nhận việc quản lý ổ đĩa và/hoặc phân vùng, điều đó ổn. Rõ ràng, nhu cầu và giá trị của bạn khác với tôi, nhưng tôi đã quá mệt mỏi với nó.
2. Máy ảo (VM) và WSL là lựa chọn tối ưu hơn
Nhu cầu sử dụng Linux của tôi khá đơn giản
Dual-boot hệ điều hành là một cách tốt để tận dụng tối đa sức mạnh phần cứng mà bạn đang sử dụng. Thời đó, đối với tôi, phần cứng đó là một chip Intel Core2Duo trên Dell XPS13, sau đó được thay thế bằng Intel Core i5, cũng là chip lõi kép. Vào thời điểm đó, chúng là những bộ xử lý khá tốt nhưng không thực sự đủ sức để chạy một hệ điều hành chính (host OS) và một hệ điều hành khác trong máy ảo (VM).
Ngày nay, một loạt các phần cứng rộng hơn có thể đáp ứng nhu cầu tăng lên khi chạy máy ảo trên hệ điều hành của bạn. Đối với các trường hợp sử dụng của tôi, tôi thường không cần truy cập trực tiếp vào phần cứng vật lý (bare metal). Ngay cả khi có, tôi có thể sử dụng WSL (Windows Subsystem for Linux), vốn sử dụng một tập hợp con của Hyper-V, vì vậy nó không gây ra nhiều ảnh hưởng đến hiệu suất. Và nếu tôi thực sự cần một máy Linux chuyên dụng, tôi may mắn có nhiều chiếc PC cũ từ các bản dựng trước đây đang nằm rảnh rỗi, có thể được đưa vào hoạt động khá nhanh chóng.
3. Rắc rối với Secure Boot
Đối phó với Secure Boot và nhiều phân vùng mã hóa là điều tôi muốn quên đi
Windows 11 thực sự rất mong muốn bạn sử dụng Secure Boot, và bạn cũng nên sử dụng nó vì những lợi ích bảo mật bổ sung mà nó mang lại cho máy tính của bạn. Đã có thời điểm, việc sử dụng Secure Boot với Windows đồng nghĩa với việc bạn không thể dual-boot với Linux, đặc biệt nếu bạn cần các driver bên thứ ba như của Nvidia cho card đồ họa. Điều này dần thay đổi khi các bản phân phối Linux bổ sung khả năng sử dụng Secure Boot. Tuy nhiên, quá trình thiết lập khá phức tạp, với một vài bước bổ sung trong giai đoạn cài đặt và yêu cầu một kernel tương thích đã được ký.
Việc làm cho Secure Boot hoạt động tốt với các hệ thống dual-boot đã đủ khó chịu rồi, lại còn thêm việc Microsoft thỉnh thoảng lại gây ra lỗi. Chẳng hạn như sự cố vào tháng 8 năm 2024, khi một bản cập nhật Windows thay đổi một số cài đặt Secure Boot Advanced Targeting (SBAT) và làm hỏng nhiều hệ thống dual-boot. Theo trang web Microsoft Learn, bản cập nhật bảo mật tháng 8 năm 2024 đã làm hỏng dual-boot khi Secure Boot được bật, và cách khắc phục là một chuỗi dài các hướng dẫn về cách tắt Secure Boot, xóa các tệp chính sách khác nhau trong Linux và Windows, và chặn Windows thực hiện các cập nhật SBAT trong tương lai. Tôi chỉ muốn máy tính của mình khởi động ngay khi tôi bật nó lên và không phải lo lắng về việc Windows, Linux hay BIOS làm thay đổi mọi thứ khiến nó không thể khởi động được nữa.
4. Cập nhật Windows phá hỏng Bootloader
Điều này không bền vững cho việc sử dụng ổn định
Windows có một thói quen khó chịu là ghi đè lên bộ nạp khởi động GRUB trong quá trình cập nhật lớn. Điều này thường xuyên xảy ra trên Windows 10, và tôi nhớ nó đã xảy ra ở hầu hết các phiên bản Windows khác, quay trở lại thời XP. Vấn đề này vẫn chưa biến mất, khi Windows 11 24H2 cũng làm hỏng bộ nạp khởi động. Nhiều phương pháp được cho là có thể khắc phục bộ nạp khởi động không phải lúc nào cũng hiệu quả. Điều thường xuyên có tác dụng (ít nhất là nếu bạn dual-boot với Ubuntu) là chạy lệnh dưới đây trong Command Prompt của Windows với quyền Administrator:
bcdedit /set "{bootmgr}" path EFIubuntushimx64.efi
Màn hình môi trường khôi phục Windows 11 sau lỗi bootloader
Điều này không phải lúc nào cũng khả thi, vì có nhiều trạng thái không thể khởi động được mà bạn không thể truy cập vào Command Prompt, mặc dù bạn có thể sử dụng USB cài đặt Windows nếu có. Nhưng đôi khi, Windows còn đi xa hơn và ghi đè toàn bộ phân vùng Linux. Điều này không phổ biến, nhưng nó vẫn xảy ra, và có khả năng xảy ra mỗi khi Windows thực hiện một bản cập nhật lớn. Bạn có cảm thấy muốn đánh cược với dữ liệu của mình sau mỗi lần cập nhật Windows không? Tôi chắc chắn là không, ngay cả khi đã có nhiều bản sao lưu gần đây.
5. BitLocker là một sự phiền toái
GRUB cộng BitLocker bằng thêm phiền toái
Nhiều người thích chạy máy tính của họ với các ổ đĩa lưu trữ được mã hóa, và đó hoàn toàn không phải là một ý tồi trong những trường hợp bình thường. Tuy nhiên, khi bạn đang sử dụng hệ thống dual-boot Windows và Linux, và bắt đầu sử dụng BitLocker cho các phân vùng Windows và LUKS cho các phân vùng Linux, mọi thứ sẽ trở nên hơi kỳ lạ khi bạn cố gắng sử dụng GRUB làm menu khởi động.
Laptop chạy Windows 11 hiển thị cài đặt BitLocker
Đó là bởi vì giá trị hash được lưu trong TPM để sử dụng BitLocker khác với giá trị hash của thứ tự khởi động BIOS > GRUB > Windows. Khởi động theo cách này sẽ yêu cầu bạn nhập khóa BitLocker, và mọi thứ sẽ ổn cho đến lần tiếp theo GRUB cập nhật, dẫn đến một giá trị hash mới. Một lần nữa, đây là hành vi được thiết kế, giúp giữ an toàn cho hệ thống của bạn trong khi kiểm tra xem người dùng có được ủy quyền truy cập vào hệ thống tệp được mã hóa hay không, nhưng việc đối phó với nó thực sự rất phiền phức.
Bạn có thể khắc phục bằng cách nhấn F12 hoặc nút tương ứng để vào thứ tự khởi động BIOS và chọn Windows từ đó. Điều này sẽ bỏ qua GRUB, và giá trị hash sẽ khớp với giá trị được lưu trong TPM. Nếu bạn bỏ lỡ thời điểm nhấn nút, nó sẽ chuyển sang GRUB và yêu cầu bạn nhập lại khóa BitLocker, và đó chỉ là thêm một rắc rối nữa mà tôi không muốn phải đối phó hàng ngày.
Dual-boot Windows và Linux cùng nhau là rắc rối gấp đôi
Hãy nghe này, tôi hiểu rằng đối với một số người, dual-boot là một sự cần thiết, một thói quen, một sở thích hay bất cứ điều gì bạn muốn gọi nó. Điều đó hoàn toàn ổn, nếu bạn có thể chịu đựng được những vấn đề lớn phát sinh từ sự sắp xếp này để đổi lấy những lợi ích nhỏ mà nó mang lại. Tôi sẽ không tranh cãi, ngoài việc nói rằng nó không còn phù hợp với tôi nữa. Tôi chỉ muốn máy tính của mình khởi động ngay lập tức khi tôi bật chúng lên và không phải thực hiện thêm các bước quản lý phức tạp sau mỗi lần. Vì những lý do đó, tôi sẽ kiên định với việc chỉ một hệ điều hành trên mỗi thiết bị.
Bạn có đồng ý với những quan điểm trên không? Hay bạn vẫn đang gắn bó với dual-boot và tìm thấy những ưu điểm riêng? Hãy chia sẻ ý kiến và kinh nghiệm của bạn trong phần bình luận bên dưới nhé!